Những bất cập trong áp dụng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sản phẩm, hàng hóa vật liệu xây dựng
Vật liệu xây dựng
Vật liệu xây dựng
1. Hệ thống Quy chuẩn liên quan ngành xây dựng (QCVN, QCĐP)
Nhiều năm gần đây, nước ta đã tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới [1] như CPTPP (Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương), EVFTA (Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EU) sẽ dẫn đến việc cắt, giảm dần thuế suất nhập khẩu và tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan theo lộ trình, nhằm tiến tới việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do. Triển khai thực thi các hiệp định này là một thách thức lớn đối với ngành sản xuất trong nước khi các hàng hóa nhập khẩu nói chung, vật liệu xây dựng (VLXD) nói riêng từ nước ngoài sẽ tràn vào với chất lượng và giá thành cạnh tranh hơn; trong khi, các doanh nghiệp trong nước có năng lực cạnh tranh còn thấp, chậm đổi mới về công nghệ, còn hạn chế về chất lượng cũng như mẫu mã và còn hoạt động đơn lẻ với quy mô chủ yếu là vừa và nhỏ.
Trong bối cảnh đó, để nhằm thu được những lợi ích to lớn của các hiệp định thương mại tự do, vừa có thể bảo hộ thương mại, bảo hộ thị trường sản xuất, người tiêu dùng trong nước một cách hợp pháp, các quốc gia đã thiết lập và tăng cường sử dụng biện pháp phi thuế quan (NTMs [2]), bao gồm một số biện pháp như rào cản kỹ thuật trong thương mại [3], biện pháp kiểm dịch động thực vật (SPS), hạn ngạch xuất nhập khẩu,… Trong đó, biện pháp rào cản kỹ thuật đối với thương mại có mức độ quan trọng và độ bao phủ cao nhất. Theo Hiệp định TBT, rào cản kỹ thuật trong thương mại chính là các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật mà một quốc gia áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu và quy trình đánh giá sự phù hợp của hàng hóa nhập khẩu đối với các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đó.
Là một thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), trên cơ sở các quy định của Hiệp định TBT, Việt Nam nhận thức rõ vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng chính sách rào cản kỹ thuật trong thương mại để phù hợp với xu hướng, thông lệ quốc tế, cũng như tăng cường quản lý chất lượng hàng hóa nhập khẩu nói chung và hàng hóa VLXD nhập khẩu nói riêng thông qua việc xây dựng khung pháp lý cơ bản như Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật năm 2006; Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007 và các văn bản có liên quan. Theo đó, các Bộ chuyên ngành chịu trách nhiệm xây dựng quy chuẩn, tiêu chuẩn đối với sản phẩm, hàng hóa thuộc các ngành quản lý, các quy định kỹ thuật đảm bảo kiểm soát được hàng hóa nhập khẩu, kiềm chế nhập siêu, bảo hộ sản xuất trong nước.
Trên cơ sở đó, năm 2011, lần đầu tiên Bộ Xây dựng đã xây dựng, đưa vào áp dụng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sản phẩm, hàng hóa VLXD mã số QCVN 16:2011/BXD. Theo đó, Bộ Xây dựng đã quy định các yêu cầu kỹ thuật, các biện pháp quản lý phải tuân thủ đối với 06 nhóm sản phẩm, hàng hóa với tổng cộng 56 loại VLXD và sau nhiều lần thay đổi [4], hiện nay quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sản phẩm, hàng hóa VLXD hiện hành là QCVN 16:2019/BXD [5].
Trải qua hơn 10 năm từ 2011 đến nay, Bộ Xây dựng đã 04 lần điều chỉnh QCVN về VLXD, kéo theo sự thay đổi về danh mục sản phẩm, hàng hóa là VLXD nhóm 2 [6]. Mỗi thời điểm thay đổi lại có vật liệu được lược bỏ và vật liệu khác được bổ sung vào danh mục sản phẩm, hàng hóa là VLXD nhóm 2. Cụ thể theo bảng sau:
Bảng 1. Thống kê các nhóm sản phẩm, hàng hóa là VLXD nhóm 2 thay đổi từ QCVN 16:2011/BXD đến QCVN 16:2019/BXD
QCVN 16:2011/BXD (Có hiệu lực từ 15/10/2011) | QCVN 16:2014/BXD (Thay thế QCVN 16:2011/BXD, có hiệu lực từ 15/10/2014) | QCVN 16:2017/BXD (Thay thế QCVN 16:2014/BXD, có hiệu lực từ 01/01/2018) | QCVN 16:2019/BXD (Thay thế QCVN 16:2017/BXD, có hiệu lực từ 01/7/2020) |
06 nhóm sản phẩm - Nhóm cement, clanhke cement. - Nhóm sơn, vật liệu xảm khe, vật liệu chống thấm. - Nhóm kính công trình. - Nhóm phụ gia sử dụng trộn bê tông, cement. - Nhóm gạch ốp lát. - Nhóm VLXD chứa sợi vô cơ, sợi hữu cơ tổng hợp, sản phẩm trên cơ sở gỗ và hợp kim nhôm. | 10 nhóm sản phẩm - Nhóm sơn, vật liệu chống thấm và vật liệu xảm khe. - Nhóm clanhke cement và cement. - Nhóm phụ gia dùng cho cement, vữa và bê tông - Nhóm VLXD chứa sợi vô cơ, sợi hữu cơ tổng hợp; ống nhựa polyvinyl clorua không hóa dẻo và sản phẩm trên cơ sở gỗ (ván dăm, ván sàn gỗ nhân tạo, ván MDF); nhôm và hợp kim nhôm định hình. - Nhóm cửa đi, cửa sổ. - Nhóm vật liệu xây. - Nhóm kính công trình. - Nhóm đá, gạch ốp lát. - Nhóm sứ nhà vệ sinh. - Nhóm cốt liệu sử dụng cho vữa, bê tông. | 06 nhóm sản phẩm - Nhóm cát dùng cho công trình. - Nhóm phụ gia sử dụng cho bê tông, cement và cement. - Nhóm kính công trình. - Nhóm vật liệu xây - Nhóm đá, gạch ốp lát. - Nhóm VLXD khác. | 06 nhóm sản phẩm - Nhóm cốt liệu công trình. - Nhóm phụ gia sử dụng trộn bê tông và cement và cement. - Nhóm kính công trình. - Nhóm vật liệu xây. - Nhóm đá, gạch ốp lát. - Nhóm VLXD khác. |
Tổng cộng: 56 sản phẩm, hàng hóa VLXD nhóm 2 | Tổng cộng: 64 sản phẩm, hàng hóa VLXD nhóm 2 | Tổng cộng: 31 sản phẩm, hàng hóa VLXD nhóm 2 | Tổng cộng: 32 sản phẩm, hàng hóa VLXD nhóm 2 |
Số liệu thống kê trên cho thấy, kể từ QCVN 16:2017/BXD đã có sự thay đổi lớn, mang tính đột phá khi Bộ Xây dựng đã cắt giảm mạnh số lượng sản phẩm, hàng hóa VLXD phải kiểm tra, quản lý bằng quy chuẩn kỹ thuật (cắt giảm từ 10 nhóm với 64 VLXD nhóm 2 tại QCVN 16:2014/BXD xuống còn 06 nhóm với 31 sản VLXD nhóm 2 kể từ QCVN 16:2017/BXD).
Hiện nay, Bộ Xây dựng đang soạn thảo Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sản phẩm, hàng hóa VLXD mới, dự kiến sẽ thay thế QCVN 16:2019/BXD.
2. Quy định pháp luật về áp dụng Quy chuẩn
Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 đã quy định rõ về việc chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy. Trên cơ sở định nghĩa chung tại Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006, tại QCVN 16:2019/BXD, Bộ Xây dựng đã quy định cụ thể về hoạt động chứng nhận hợp quy và công bố hợp quy sản phẩm, hàng hóa VLXD; trong đó, quy định rõ 03 phương thức đánh giá sự phù hợp và các sản phẩm, hàng hóa VLXD phải được công bố hợp quy phù hợp với các quy định kỹ thuật nêu trong Phần 2 của Quy chuẩn dựa trên kết quả chứng nhận hợp quy của Tổ chức chứng nhận hợp quy được Bộ Xây dựng chỉ định hoặc thừa nhận.
3. Về xây dựng quy chuẩn địa phương tại Thành phố Hồ Chí Minh
Về quy chuẩn kỹ thuật địa phương (QCĐP), quy định về lập kế hoạch, lập dự toán kinh phí và các bước tổ chức thực hiện để xây dựng QCĐP còn phức tạp. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xây dựng và VLXD còn thường xuyên thay đổi, chưa ổn định. Do đó, Thành phố Hồ Chí Minh chưa xây dựng QCĐP về lĩnh vực VLXD.
4. Đánh giá việc áp dụng Quy chuẩn của các đơn vị tham gia hoạt động xây dựng
Theo số liệu báo cáo của các tổ chức chứng nhận hợp quy tính đến ngày 09 tháng 01 năm 2023; trong năm 2022, số lượng Giấy chứng nhận hợp quy (GCN) được cấp là 4.410 GCN, tăng 168,74 % so với năm 2021 (1.641 GCN) và kết quả thí nghiệm (KQTN) kèm theo các Giấy chứng nhận hợp quy được cấp là 7.379, tăng 41,01 % so năm 2021 (5.233 KQTN).
Trong năm 2022 (từ ngày 02/01/2022 đến ngày 31/12/2022), Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận 20.433 hồ sơ liên quan áp dụng quy chuẩn QCVN 16:2019/BXD (trong đó, bao gồm 7.070 hồ sơ trực tuyến đăng ký công bố hợp quy sản phẩm, hàng hóa VLXD, tăng 58,21% so với cùng kỳ năm 2021 (4.116 hồ sơ); 13.363 hồ sơ đăng ký kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa VLXD nhập khẩu, tăng 96,75% so với cùng kỳ năm 2021 (6792 hồ sơ)).
Trong 06 tháng đầu năm 2023 (từ ngày 02/01/2023 đến ngày 24/5/2023), Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh đã nhận 5.781 hồ sơ liên quan áp dụng quy chuẩn QCVN 16:2019/BXD (trong đó, bao gồm 2.272 hồ sơ trực tuyến đăng ký công bố hợp quy sản phẩm, hàng hóa VLXD, tăng 21,17% so với cùng kỳ năm 2022 (1.875 hồ sơ); 3.509 hồ sơ đăng ký kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa VLXD nhập khẩu, giảm 28,34 % so với cùng kỳ năm 2022 (4.897 hồ sơ)).
Qua kiểm tra sản phẩm, hàng hóa VLXD trong quá trình sản xuất, kinh doanh và sử dụng trong công trình xây dựng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh định kỳ hàng năm; các tổ chức, cá nhân đều biết quy định của QCVN 16:2019/BXD. Sản phẩm, hàng hóa VLXD của các công trình và doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh cơ bản đều có hồ sơ hợp quy, bảo quản phù hợp theo quy định của QCVN 16:2019/BXD, tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng; công bố tiêu chuẩn áp dụng của đơn vị sản xuất, nhập khẩu không trái với quy định của quy chuẩn kỹ thuật quốc gia. Trong năm 2022, qua lấy mẫu ngẫu nhiên 08 loại VLXD tại các công trình đang thi công, có vật liệu tại công trường và 42 loại VLXD đang có tại 14 đơn vị sản xuất, kinh doanh để thử nghiệm, kiểm tra chất lượng; kết quả thử nghiệm đều đạt chất lượng theo quy định của QCVN 16:2019/BXD.
Về hạn chế, vẫn còn nhiều đơn vị chưa lưu trữ đầy đủ hoặc chưa yêu cầu đơn vị cung cấp VLXD gửi đầy đủ thông tin, tài liệu liên quan đến sản phẩm, hàng hóa theo quy định của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa để kiểm tra chất lượng VLXD trước khi đưa vào sử dụng so với yêu cầu của thiết kế, công bố chất lượng của nhà sản xuất và quy chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng cho công trình. Bên cạnh đó, nhiều đơn vị chưa thông báo trên các phương tiện thông tin thích hợp về việc công bố hợp quy của mình, đảm bảo người sử dụng sản phẩm, hàng hóa dễ dàng tiếp cận theo quy định tại khoản 1 Điều 16 Thông tư số 28/2012/TT-BKHCN ngày 12/12/2012 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ. Tuy nhiên, chưa có quy định xử lý vi phạm nội dung này, trong khi việc này nhằm đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng và sử dụng.
5. Các bất cập trong áp dụng Quy chuẩn QCVN 16:2019/BXD
5.1. Về hồ sơ đăng ký kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa VLXD nhập khẩu
Hồ sơ đăng ký kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa VLXD nhập khẩu do doanh nghiệp nộp rất nhiều (thành phần hồ sơ gồm 13 loại tài liệu, trong đó 07/13 loại tài liệu bắt buộc, có 04/13 loại tài liệu tiếng nước ngoài không có quy định phải dịch thuật hoặc hợp pháp hóa lãnh sự) nhưng thời gian giải quyết theo quy định rất ngắn, chỉ 01 ngày làm việc [7].
Bên cạnh đó, lô hàng hóa VLXD nhập khẩu đã được tổ chức chứng nhận hợp quy được Bộ Xây dựng đánh giá và công nhận năng lực tiến hành thử nghiệm, cấp giấy chứng nhận hợp quy. Việc kiểm tra lại hồ sơ của Sở Xây dựng chỉ mang tính chất kiểm tra trên giấy tờ; đồng thời, trùng lặp với việc tiếp nhận hồ sơ công bố hợp quy. Cơ quan Hải quan phải có trách nhiệm kiểm tra thực tế về hàng hóa nhập khẩu theo quy định, Sở Xây dựng thực tế chỉ có khả năng kiểm tra sự phù hợp về thành phần hồ sơ (không kiểm tra thực tế hàng hóa ở cảng và kho).
(Sở Xây dựng đã có nhiều văn bản báo cáo, kiến nghị Bộ Xây dựng, nhưng đến nay chưa sửa đổi QCVN 16:2019/BXD).
5.2. Về việc hàng hóa VLXD nhóm 2 được miễn kiểm tra chất lượng khi nhập khẩu
Theo điểm 1.1.2 khoản 1.1 Phần 1 QCVN 16:2019/BXD: “Quy chuẩn này không áp dụng cho sản phẩm, hàng hóa vật liệu xây dựng nhập khẩu dưới dạng mẫu thử, hàng mẫu, hàng trưng bày triển lãm, hội chợ; hàng hóa tạm nhập tái xuất không tiêu thụ và sử dụng tại Việt Nam, hàng hóa quá cảnh”.
Tuy nhiên, theo khoản 7 Điều 7 Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2008 của Chính phủ (sau khi được bổ sung, sửa đổi tại khoản 3 Điều 1 Nghị định số 74/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ, khoản 2 Điều 4 Nghị định số 154/2018/NĐ-CP ngày 09 tháng 11 năm 2018 của Chính phủ, Điều 1 Nghị định số 13/2022/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2022 của Chính phủ) quy định sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 được miễn kiểm tra chất lượng khi nhập khẩu gồm nhiều đối tượng hơn QCVN 16:2019/BXD; đồng thời, quy định khắt khe hơn về hàng mẫu và chỉ có hàng hóa tạm nhập khẩu để trưng bày, giới thiệu tại hội chợ triển lãm thương mại mới được miễn kiểm tra (không có cho phép miễn đối với hàng doanh nghiệp tự nhập khẩu về trưng bày tại Công ty).
Khoản 2 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định “Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn”. Do đó, các cơ quan, đơn vị phải áp dụng quy định của khoản 7 Điều 7 Nghị định số 132/2008/NĐ-CP (sau khi được bổ sung, sửa đổi), thay vì điểm 1.1.2 khoản 1.1 Phần 1 QCVN 16:2019/BXD.
Ngoài ra, hiện nay không có quy định cụ thể về cách thức doanh nghiệp chứng minh việc hàng hóa không có giá trị sử dụng (ví dụ: cắt góc, đục lỗ,…; trong khi, 01 viên gạch vẫn có thể mang đi ốp lát, sửa chữa). Bộ Xây dựng cũng chưa ban hành quyết định về việc sản phẩm, hàng hóa VLXD nhóm 2 được miễn kiểm tra chất lượng khi nhập khẩu không nhằm mục đích kinh doanh (loại hình phi mậu dịch). Do đó, các đơn vị chưa có cơ sở thực hiện cho thống nhất.
5.3. Trường hợp hàng hóa VLXD nhóm 2 nhập khẩu với số lượng ít, không đủ để lấy mẫu thử nghiệm
Điều 8 Thông tư số 06/2020/TT-BKHCN ngày 10 tháng 12 năm 2020 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ quy định chi tiết và biện pháp thi hành một số điều Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2008, Nghị định số 74/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018, Nghị định số 154/2018/NĐ-CP ngày 09 tháng 11 năm 2018 và Nghị định số 119/2017/NĐ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2017 của Chính phủ có quy định:
“1. Hàng hóa nhóm 2 nhập khẩu có số lượng ít, không đủ để lấy mẫu thử nghiệm theo quy định hoặc chi phí thử nghiệm được xác định thông qua 03 báo giá của tổ chức thử nghiệm cho thấy lớn hơn so với giá trị của lô hàng nhập khẩu, căn cứ nhu cầu quản lý và yêu cầu đối với từng loại hàng hóa, Bộ quản lý ngành, lĩnh vực quy định cụ thể biện pháp quản lý tại các quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng.
2. Trường hợp chưa có quy định trong quy chuẩn kỹ thuật quốc gia tương ứng, doanh nghiệp thực hiện theo hướng dẫn của các Bộ quản lý ngành, lĩnh vực”.
Hiện nay, Sở Xây dựng thường xuyên nhận các hồ sơ, văn bản của các tổ chức chứng nhận hợp quy và các doanh nghiệp nhập khẩu đề nghị miễn kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa VLXD thuộc danh mục của QCVN 16:2019/BXD nhập khẩu, nhưng số lượng ít hơn hoặc quy cách mẫu không đáp ứng quy định lấy mẫu trong QCVN 16:2019/BXD, nên không có cơ sở thử nghiệm, đánh giá chất lượng. Ví dụ: gạch gốm ốp lát chỉ nhập khẩu 1 đến 4 viên; thanh định hình (profile) nhôm và hợp kim nhôm nhập khẩu số lượng lớn, nhưng lại ngắn hơn 0,5m/thanh; các loại kính xây dựng thuộc danh mục nhưng chiều dài, chiều rộng tấm kính nhỏ hơn kích thước mẫu thử quy định…
Trường hợp không thử nghiệm, kiểm tra chất lượng nhưng vẫn cho nhập khẩu, lưu thông hàng hóa vào thị trường Việt Nam dễ dẫn đến nhiều rủi ro, bất cập cho người dân và công trình xây dựng.
5.4. Về trách nhiệm cung cấp kết quả đánh giá sự phù hợp
Khoản 1 Điều 17 Thông tư số 06/2020/TT-BKHCN quy định trách nhiệm của tổ chức đánh giá sự phù hợp:
“1. Cung cấp kết quả đánh giá sự phù hợp cho cơ quan kiểm tra và người nhập khẩu trong thời hạn tối đa 07 ngày, kể từ ngày lấy mẫu đối với hàng hóa nhập khẩu áp dụng biện pháp quản lý Mức 3.
…b) Trường hợp vì lý do kỹ thuật hoặc lý do khách quan phải kéo dài thời gian đánh giá sự phù hợp, tổ chức đánh giá sự phù hợp thông báo ngay bằng văn bản nêu rõ lý do và thời hạn trả kết quả đánh giá sự phù hợp cho người nhập khẩu để báo cáo cơ quan kiểm tra”.
Tuy nhiên, trong quá trình tiếp nhận hồ sơ đăng ký kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa VLXD nhập khẩu, rất thường xuyên các doanh nghiệp không nộp đầy đủ thành phần giấy chứng nhận hợp quy và kết quả thử nghiệm của tổ chức đánh giá sự phù hợp do Bộ Xây dựng chỉ định trong vòng 07 ngày, kể từ ngày được Sở Xây dựng xác nhận trên bản đăng ký của người nhập khẩu (ngày mở mã hồ sơ), hoặc ngày lấy mẫu; nhưng Sở Xây dựng không nhận được văn bản của tổ chức đánh giá sự phù hợp thông báo lý do và thời hạn trả kết quả đánh giá sự phù hợp (thành phần hồ sơ theo Nghị định số 74/2018/NĐ-CP và Nghị định số 154/2018/NĐ-CP cũng không có văn bản này, chỉ có quy định văn bản của người nhập khẩu nêu rõ lý do và thời gian hoàn thành nếu không hoàn thiện hồ sơ trong 15 ngày làm việc).
Việc này dẫn đến các cơ quan hải quan gây áp lực rất lớn trong việc Sở Xây dựng phải ban hành Thông báo kết quả kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa nhập khẩu trong vòng không quá 30 ngày, kể từ ngày mở tờ khai hàng hóa nhập khẩu, ngày Sở Xây dựng xác nhận mở mã hồ sơ; trong khi phần lớn thời gian tiếp theo thuộc về doanh nghiệp và tổ chức đánh giá sự phù hợp tiến hành lấy mẫu, thử nghiệm, đánh giá chất lượng và hoàn thiện hồ sơ.
Bên cạnh đó, nhiều trường hợp tổ chức chứng nhận hợp quy không gửi, hoặc chậm gửi văn bản báo cáo về Sở Xây dựng trường hợp đình chỉ hoặc thu hồi giấy chứng nhận hợp quy đã cấp; dẫn đến không có biện pháp ngăn chặn và xử lý kịp thời đối với hàng hóa không đủ điều kiện nhưng vẫn lưu thông trên thị trường.
Hiện nay, Nghị định số 119/2017/NĐ-CP ngày 01 tháng 11 năm 2017 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa (sau khi sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 126/2021/NĐ-CP ngày 30 tháng 12 năm 2021 của Chính phủ) không có xử phạt đối với các tổ chức đánh giá sự phù hợp, người nhập khẩu, người kinh doanh… không thực hiện đầy đủ các trách nhiệm và nghĩa vụ theo quy định.
(Đối với các nội dung tại điểm 5.2, điểm 5.3 và điểm 5.4 khoản này, Sở Xây dựng đã có văn bản số 14622/SXD-VLXD ngày 25 tháng 10 năm 2022 báo cáo, kiến nghị Bộ Xây dựng nhưng chưa nhận được hướng dẫn).
6. Đề xuất
6.1. Kiến nghị Thủ tướng Chính phủ
Đối với khoản 3 Điều 1 Nghị định số 74/2018/NĐ-CP, khi sản phẩm, hàng hóa VLXD thuộc danh mục quy chuẩn kỹ thuật quốc gia được nhập khẩu tại Thành phố Hồ Chí Minh, hoặc do doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tại Thành phố Hồ Chí Minh nhập khẩu tại các tỉnh, thành khác; không cần thiết đăng ký kiểm tra nhà nước về chất lượng hàng hóa VLXD nhập khẩu tại cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố.
6.2. Kiến nghị Bộ Xây dựng
Khi soát xét quy chuẩn thay thế QCVN 16:2019/BXD:
- Cập nhật quy định của Chính phủ về sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 được miễn kiểm tra chất lượng khi nhập khẩu; quy định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp nhập khẩu phải kèm theo tài liệu chứng minh; hướng dẫn thống nhất cách thức doanh nghiệp chứng minh việc hàng hóa không có giá trị sử dụng.
- Sớm ban hành quyết định về việc sản phẩm, hàng hóa VLXD nhóm 2 được miễn kiểm tra chất lượng khi nhập khẩu không nhằm mục đích kinh doanh (loại hình phi mậu dịch).
- Xem xét, hướng dẫn thực hiện đối với trường hợp hàng hóa VLXD nhóm 2 nhập khẩu có số lượng ít, không đủ để lấy mẫu thử nghiệm theo quy định hoặc chi phí thử nghiệm được xác định thông qua 03 báo giá của tổ chức thử nghiệm cho thấy lớn hơn so với giá trị của lô hàng nhập khẩu, theo Điều 8 Thông tư số 06/2020/TT-BKHCN, theo hướng: Đề nghị các doanh nghiệp thực hiện các giải pháp đối với lô hàng nhập khẩu để chứng minh việc đảm bảo không có giá trị sử dụng và không lưu thông được trên thị trường; hoặc làm việc với đơn vị sản xuất và xuất khẩu ở nước ngoài, gửi hàng hóa đảm bảo quy định về lấy mẫu, thử nghiệm, kiểm tra chất lượng của QCVN 16:2019/BXD và tổ chức chứng nhận hợp quy có trách nhiệm đánh giá tính đồng bộ của mẫu thử so với lô hàng hóa nhập khẩu thực tế.
- Có ý kiến với Bộ Khoa học và Công nghệ (cơ quan soạn thảo Nghị định số 119/2017/NĐ-CP), khi soát xét Nghị định số 119/2017/NĐ-CP và Nghị định số 126/2021/NĐ-CP, bổ sung xử phạt các hành vi nêu tại điểm 5.4 trên, để thực hiện nghiêm túc quy định và cơ quan quản lý nhà nước có cơ sở xem xét, xử lý vi phạm.
PHÒNG VẬT LIỆU XÂY DỰNG
Ghi chú:
[1] Theo Trung tâm WTO và Hội nhập - VCCI, “Các hiệp định tự do thế hệ mới và tác động đối với nền kinh tế Việt Nam”, https://trungtamwto.vn/an-pham/15709-cac-hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi-va-tac-dong-doi-voi-kinh-te-viet-nam (bài đăng ngày 13/7/2020), tính đến tháng 7/2020 Việt Nam đã tham gia và đang đàm phán 17 hiệp định thương mại tự do (10 hiệp định có hiệu lực, đang thực thi; 3 hiệp định đã ký kết hoặc kết thúc đàm phán nhưng chưa có hiệu lực, 4 hiệp định đang đàm phán).
[2] NTMs - Non - Tariff Measures.
[3] Nhận thức được tầm quan trọng của rào cản kỹ thuật đối với thương mại, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã thông qua Hiệp định về các rào cản kỹ thuật đối với Thương mại (Hiệp định TBT - Agreement on Technical Barriers to Trade), có hiệu lực từ ngày 01/01/1995.
[4] QCVN 16:2011/BXD được ban hành theo Thông tư số 11/2011/TT-BXD ngày 30/8/2011 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng. Đến năm 2014, QCVN 16:2014/BXD được ban hành, thay thế QCVN 16:2011/BXD và chỉ sau 03 năm đến năm 2017, QCVN 16:2014/BXD tiếp tục được thay thế bởi QCVN 16:2017/BXD.
[5] QCVN 16:2019/BXD được ban hành kèm theo Thông tư số 19/2019/TT-BXD ngày 31/12/2019 của Bộ trưởng Bộ Xây dựng, thay thế cho QCVN 16:2017/BXD và có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2020 đến nay.
[6] Theo điểm 1.3.5, khoản 1.3 Phần 1 QCVN 16:2019/BXD quy định: “Sản phẩm, hàng hóa vật liệu xây dựng thuộc nhóm 2 là sản phẩm, hàng hóa trong điều kiện vận chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và đúng mục đích vẫn tiềm ẩn khả năng gây hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường”.
[7] Theo khoản 3 Điều 1 Nghị định số 74/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ, đối với trường hợp 2c.
Phòng Vật liệu xây dựng
- Thông báo số 7720/TB-SXD-VLXD ngày 31/5/2023 của Sở Xây dựng v/v công bố giá vật liệu xây dựng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh tháng 5/2023 (01/06/2023)
- Kế hoạch số 7330/KH-SXD-VLXD ngày 24/05/2023 của Sở Xây dựng về khảo sát việc thực hiện các giải pháp tiết kiệm năng lượng của các doanh nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh năm 2023 (25/05/2023)
- Thông báo số 7220/TB-SXD-VLXDngày 23/5/2023 của Sở Xây dựng về việc hướng dẫn thực hiện đăng ký hồ sơ công bố hợp quy tại Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh (23/05/2023)
- Thông báo số 6043/TB-SXD-VLXD ngày 28/4/2023 của Sở Xây dựng về việc v/v công bố giá vật liệu xây dựng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh tháng 4/2023 (28/04/2023)
- Công văn số 5930/SXD-VLXD ngày 26/4/2023 của Sở Xây dựng v/v phối hợp cung cấp thông tin về sản xuất và sử dụng vật liệu chống cháy; thuận lợi,khó khăn và kiến nghị khi áp dụng Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn cháy cho nhà và công trình QCVN 06:2022/BXD (27/04/2023)